Những năm qua việc
đổi mới nội dung, chương trình sách giáo khoa được thực hiện khá đồng bộ.
Việc đổi mới nội dung, chương trình yêu cầu phải đổi mới phương pháp dạy học.
Đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi phải sử dụng phương tiện dạy học phù hợp
- và CNTT là một trong những phương tiện quan trọng góp phần đổi mới phương
pháp dạy học.
Từ những phương tiện này giáo viên
có thể khai thác, sử dụng, cập nhật và trao đổi thông tin. Việc khai thác
mạng giúp giáo viên tránh được tình trạng“dạy chay” một cách thiết thực, đồng
thời giúp giáo viên có thể cập nhật thông tin nhanh chóng nhạy bén, hiệu quả
những vấn đề xã hội. Đây là một trong những yêu cầu đặc biệt cần thiết đối
với giáo viên giảng dạy.
Hiện nay việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy đã và đang được thực hiện rộng
rãi ở hầu hết các tỉnh thành phố trong cả nước và đạt được hiệu quả rất tốt
đối với từng cấp học, môn học.
Nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng và hiệu
quả của ứng dụng CNTT trong dạy học; được sự quan tâm và chỉ đạo sâu
sát của Ban giám hiệu trường tiểu học Kỳ Đồng, trong quá trình dạy học
vừa qua tôi đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng, triển khai ứng dụng CNTT
trong giảng dạy và bước đầu thu được một số kết quả nhất định.
Ở bậc Tiểu học, đặc
biệt là khối lớp 1 là khối lớp đầu tiên các em HS được học kiến thức phổ
thông khi bước vào trường nên công tác giảng dạy có yếu tố đặc biệt quan
trọng.
Thực tế cho thấy rằng dạy học truyền thống đối
với học sinh lớp 1, giáo viên phải sử dụng rất nhiều đồ dùng trong một tiết
dạy. Từ khâu kẻ vẽ, soạn đồ dùng trên lớp rất mất nhiều thời gian mà hiệu quả
chưa cao dẫn đến giáo viên ngại sử dụng đồ dùng trực quan thường dạy chay.
Hơn nữa trong quá trình thao tác hưỡng dẫn bài học, một bộ phận học sinh
không quan sát được rõ ràng do vị trí đứng của giáo viên che khuất mục tiêu
hướng dẫn.
Nhờ thế mạnh: dễ quan sát theo dõi, trực
quan, sinh động, dữ liệu phong phú, lưu trữ và sử dụng dễ dàng, thông qua việc giảng dạy sử dụng đồ dùng bằng
công nghệ thông tin, giáo viên giúp học sinh từng bước phát triển năng lực tư
duy, rèn luyện phương pháp và kĩ năng
logic, khả năng quan sát phỏng đoán, tìm tòi. Giờ học của các em phải diễn ra
một cách hứng thú, nhẹ nhàng, sinh động, cụ thể nhằm tích cực hoá các hoạt
động nhận thức của học sinh. Như vậy có thể nói dạy - học ở tiểu học là một
công việc hết sức quan trọng đối với người dạy và người học. Nhờ đó, học sinh
có một công cụ, một chiếc chìa khoá vàng để mở cửa chân trời khoa học. Đó là
phương tiện mang theo trong suốt cuộc đời học sinh và trong cả thực tế cuộc
sống.
Công nghệ thông tin không những chỉ có vai trò
quan trọng trong công tác quản lý của trường học mà còn hỗ trợ giáo viên thực
hiện việc thiết kế bài giảng, đổi mới
phương pháp dạy học và tổ chức quá trình dạy học ở tất cả các môn học.
Đối với học sinh, việc sử dụng đồ dùng hiện đại là một phương tiện có tác
dụng trợ giúp cho các em tiếp thu kiến
thức, khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, tự học không ngừng nâng cao.
Trong quá trình dạy học không ít giáo viên còn coi nhẹ
việc sử dụng CNTT, hoặc sử dụng nó chỉ để " thay bảng đen" không
phát huy được khả năng tuyệt vời của phương tiện dạy học này.
Có những giờ dạy học, giáo viên còn lạm dụng CNTT, sử dụng
không đúng lúc, đúng chỗ, không phối hợp với các phương tiện khác, làm cho
giờ học thụ động, ít có kiến tạo tri thức, học sinh học "như xem
phim", trong khi CNTT chỉ là phương tiện dạy học.
Trong
quá trình thực hiện dạy bằng phần mềm trình chiếu PowerPoint một số học sinh
không chú ý phần thực hành mà chỉ chú ý quan sát màn hình.
Nhiều
giáo viên soạn giảng lạm dụng đến màu sắc phông chữ và hình nền loè loẹt gây
phản cảm, hiệu ứng nhảy nhót gây mất sự chú ý tìm hiểu trọng tâm bài học.
Trên cơ sở nhận biết các thực trạng nêu trên, tôi đã mạnh dạn tìm hiểu
và áp dụng các phương pháp soạn giảng hợp lý và sáng tạo, vẫn dựa vào cấu
trúc của bài giảng truyền thống nhưng có sự hỗ trợ đắc lực và hiệu quả của
CNTT mà điển hình nhất là phần mềm trình chiếu PowerPoint kết hợp với phần
mềm hố trợ thiết kế hoạt hình Flash.
Theo tôi, để bài soạn có cấu trúc chặt chẽ, logic được quy định bởi
cấu trúc của bài học giáo viên phải xác định mục tiêu, trọng tâm và kiến thức
cơ bản của bài học để làm nổi bật các
mối quan hệ giữa các hợp phần kiến thức của bài. Từ đó xây dựng kịch bản, lấy
tư liệu cho các hoạt động: hoạt cảnh (Animation), ảnh chụp (image); âm thanh
(audio);và phim vi deo (videoclip). Sau đó, giáo viên lựa chọn phần
mềm công cụ và số hoá nội dung tạo hiệu ứng trong các tương tác. Cuối cùng,
chỉnh sửa, chạy thử và hoàn thiện nội dung bài dạy. Ví dụ:
- Với môn Toán:
Để học
sinh hiểu và nắm bắt được kiến thức, phần giới thiệu bài giáo viên nên cho
học sinh hoạt động bằng đồ dùng trực quan cá nhân sau đó đối chiếu trên màn
hình giúp học sinh nhớ bài tốt hơn.
Dạng
giải toán có lời văn đối với lớp 1, bước đầu các em còn rất bỡ ngỡ, lo ngại
thì các bài toán có lời văn đưa ra phải bắt đầu từ hình ảnh trực quan sinh
động.
Trong dạy toán phần luyện tập, thực hành các bài thuộc dạng
tính, đặt tính hay tính nhẩm giáo viên
nên tạm dừng màn hình cho học sinh làm bài tránh thiếu tập trung. Sau khi học
sinh hoàn thành có thể kiểm tra học sinh đổi chéo vở nhận xét và cho điểm
miệng bài làm của bạn; chữa bài theo dạy học truyền thống: chữa trên bảng lớp
hay đối chiếu với kết quả trên màn hình.

- Với
môn Tiếng việt:
Phần học vần, khi giới thiệu âm, tiếng hay từ
ứng dụng. Giáo viên chỉ cần di chuyển chuột thì sẽ xuất hiện trên màn hình
âm,tiếng hay từ với bố cục được trình bày giống như trong SGK Tiếng việt Lớp
1.Thông qua việc bấm phím, di chuyển chuột, phông chữ to, rõ ràng; học sinh
ngồi ở góc độ nào cũng thấy rõ bài học. Từ đó giáo viên dễ dàng giúp học sinh
tiếp thu được những kiến thức, kĩ năng và rèn đọc cho học sinh đạt kết quả
tốt hơn.
Luyện viết
giáo viên nên hướng dẫn học sinh cụ thể cách viết thông qua trình
chiếu hoạt hình Flash để học sinh dễ theo dõi cách đưa các nét. Khi thiết kế
hoạt hình nên bố trí tạm dừng ở các vị trí dừng nét viết cho chính xác.
Với cách làm như vậy, học sinh được quan sát
một cách trực tiếp qua những hình ảnh động sẽ tiếp thu bài tốt hơn.
Phần Tập đọc học kì 2 Lớp 1. nên trình chiếu cho học sinh được quan sát tranh và đọc bài
với phông chữ to, rõ ràng, trình tự các bước của bài dạy xuất hiện làm gây hứng thú học của các em. Giải nghĩa một
số từ bằng hình ảnh động dù học ở tại lớp nhưng học sinh như cảm thấy được
chính mình đang đứng đó để ngắm nhìn.

- Với môn Tự nhiên-Xã hội:
Đối với học sinh lớp 1, kiến thức tự nhiên xã
hội còn rất ít. Trí nhớ của các em mới chỉ dừng lại ở mức độ tư duy cụ thể.
Đối với các môn Tự nhiên và xã hội là sự vận dụng tổng hợp tri thức , giáo
dục kĩ năng sống cho các em một cách toàn diện hơn. Từ việc quan sát tranh,
nêu nội dungcủa từng bức tranh dưa ra ý kiến. Học sinh tham gia hoạt động sôi
nổi hơn, tự tin nêu chứng kiến của mình, tự tin đứng trước lớp là dịp củng cố
những kiến thức mà các em đã học. Là điều kiện thuận lợi cho các em phân tích
tổng hợp. Từ đó trí thông minh. Tư duy được nâng cao. Chính vì vậy học sinh
rất khó tưởng tượng khi giáo viên dạy theo giáo án thông thường với hình ảnh
tĩnh. Nhưng khi học sinh được quan sát trên màn hình các em sẽ hiểu ngay.
- Với môn Đạo đức:
Đối với học sinh lớp
1 môn Đạo đức giáo dục học sinh bước đầu biết cách sống và ứng xử phù hợp các
mối quan hệ với những người thân trong gia đình, với thầy cô giáo, bạn bè và
những người xung quanh; với cộng đồng quê hương, đất nước và với môi trường
tự nhiên; giúp các em bước đầu biết sống tích cực, chủ động, có mục đích, có
kế hoạch, tự trọng, tự tin, có kỉ luật, biết hợp tác, giản dị, tiết kiệm…để
trở thành con ngoan trong gia đình, học sinh tích cực của nhà trường và công
dân tốt của xã hội.
Để việc áp dụng
công nghệ thông tin vào giảng dạy đạt hiệu quả cao, ngoài các yếu tố soạn
giảng và thực hiện bài giảng cũng cần chuẩn bị tốt các thiết bị hỗ trợ giảng
dạy như: Máy chiếu có độ nét cao, phông màn tốt đủ độ lớn để học sinh quan
sát bài giảng được tốt. Thiết bị điều khiển trình chiếu từ xa và di động để
giáo viên tự do hơn trong giao tiếp với học sinh trong quá trình giảng bài,
tránh lệ thuộc vào vị trí điều khiển con chuột máy tính.
Tôi thấy rằng các biện pháp áp dụng công nghệ
tin học vào dạy học trong chương trình lớp 1đã trình bày ở trên các em không
những nắm chắc kiến thức mà tôi thấy các em đọc bài rất tốt, làm toán nhanh,
trình bày bài và viết chữ rất đẹp. Học sinh lớp tôi còn biết chia sẻ thương
yêu nhau, đoàn kết giúp đỡ khi bạn gặp khó khăn, mạnh dạn, tự tin đứng trước
lớp, thi đua thể hiện năng khiếu. Nói chung, dạy học ứng dụng công nghệ thông
tin học sinh học tập phấn khởi hơn, tiếp thu bài nhanh hơn và có chất lượng
thực sự.
Dạy học bằng công nghệ thông tin tạo rất nhiều
điều kiện thuận lợi cho giáo viên:
- Tiết kiệm được một số thao tác viết và nói để giáo viên có thời gian
hướng dẫn kiểm tra nhiều hơn.
- Nội dung dạy học, khối lượng thông tin cần
truyền đạt tới học sinh được ghi vào các đĩa gọn nhẹ nên mỗi giáo viên có thể
dễ dàng có trong tay phương tiện để tự mình chủ động thực hiện phương pháp dạy học tích cực ở bất kì nơi
nào có máy tính.
- Với học sinh, việc sử dụng đồ dùng hiện đại
sẽ thu hút học sinh tích cực tham gia hoạt động học tập, giúp các em tự tin
hơn khi tiếp thu các kiến thức, phát huy khả năng tư duy độc lập sáng tạo một
cách phong phú và đa dạng, tạo nguồn cảm hứng, sự say mê học tập của học
sinh.
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã thực hiện ứng dụng công nghệ
tin học vào dạy trong chương trình lớp 1 tôi phụ trách. Tuy nhiên, vì CNTT đòi hỏi phải có đầu tư lớn, tốn kém, việc soạn
giáo án điện tử, trình chiếu PowerPoint vừa tiêu tốn thời gian vừa mất nhiều
công sức của giáo viên cho nên việc đẩy mạnh áp dụng CNTT trong dạy học phải
tiến hành đồng bộ, trong một hệ thống của quá trình dạy học chặt chẽ, có lộ
trình, mục tiêu, kiểm tra đánh giá, khảo sát hiệu quả thực tế rõ ràng, tránh
kiểu phong trào, hình thức.
Hi vọng rằng với sự chỉ đạo và quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường,
sự cố gắng tìm hiểu và phát huy các ứng dụng CNTT vào giảng dạy của tập
thể giáo viên toàn trường, trường ta sẽ có nhiều thành tích tốt hơn nữa trong
hoạt động dạy và học thời kỳ CNTT và cũng đạt thành tích tốt trong các đợt
thi ứng dụng CNTT của ngành giáo dục cấp Quận và thành
phố.
|