1) Thế nào là dạy học tích hợp?
Dạy học tích hợp có nghĩa là đưa những nội dung giáo dục có liên quan vào quá trình dạy học các môn học như: tích hợp giáo dục đạo đức, lối sống; giáo dục pháp luật; giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới, biển, đảo; giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ môi trường, an toàn giao thông...
Về phương pháp và hình thức tổ chức dạy học thì đối với một chủ đề, vẫn phải chú trọng việc ứng dụng kiến thức của chủ đề ấy, bao gồm ứng dụng vào thực tiễn cũng như ứng dụng trong các môn học khác.
Điều quan trọng là dạy học nhằm phát triển năng lực học sinh đòi hỏi phải tổ chức hoạt động học tích cực, tự lực và sáng tạo cho học sinh, mà các hoạt động ấy phải được tổ chức ở trong lớp, ngoài lớp, trong trường, ngoài trường, ở nhà và cộng đồng, đặc biệt quan tâm đến hoạt động thực hành và ứng dụng kiến thức vào giải quyết những vấn đề thực tiễn.
2) Ưu điểm với học sinh
Trước hết, tích hợp có tính thực tiễn nên sinh động, hấp dẫn đối với học sinh, có ưu thế trong việc tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho học sinh. Học các chủ đề tích hợp, học sinh được tăng cường vận dụng kiến thức tổng hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức một cách máy móc.
Điều quan trọng hơn là các chủ đề tích hợp, giúp cho học sinh không nhàm chán, có được sự hiểu biết tổng quát cũng như khả năng ứng dụng của kiến thức tổng hợp vào thực tiễn.
3) Giáo viên có gặp khó khăn?
Khó khăn của giáo viên hiện nay nếu có chỉ là vấn đề tâm lí. Về thực chất thì không có nhiều khó khăn cả về kiến thức lẫn phương pháp dạy học.
Hơn nữa, từ nhiều năm nay, Bộ GD-ĐT đã chỉ đạo tích hợp nhiều nội dung giáo dục vào quá trình dạy học các môn học trong trường phổ thông như: giáo dục đạo đức, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; giáo dục pháp luật; giáo dục chủ quyền quốc gia, tài nguyên và môi trường về biên giới, biển, đảo; sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; bảo vệ môi trường; đa dạng sinh học và bảo tồn thiên nhiên; ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai; giáo dục an toàn giao thông...
Để chuẩn bị cho năm học này, vừa qua Bộ GD-ĐT cũng đã tập huấn giáo viên về đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh, trong đó tập trung xây dựng các chủ đề dạy học trong mỗi môn học và chủ đề tích hợp phù hợp với phương pháp dạy học tích cực và phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của địa phương, nhà trường.
4) Giáo viên cần trang bị những gì?
Giáo viên cũng không phải trang bị thêm nhiều về mặt kiến thức vì bản chất vẫn là dạy học môn học mà mình đang dạy. Mặt khác, trong những năm qua giáo viên cũng đã được trang bị thêm nhiều kiến thức mới về phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực.
Vấn đề bây giờ là phải vận dụng những kiến thức đó để: xây dựng các chủ đề dạy học; xác định những năng lực có thể phát triển cho học sinh trong mỗi chủ đề; biên soạn các câu hỏi, bài tập để đánh giá năng lực của học sinh trong dạy học; thiết kế tiến trình dạy học thành các hoạt động học của học sinh; tổ chức dạy học để dự giờ, phân tích, rút kinh nghiệm.
5) Một số biện pháp tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường trong trường Tiểu học
Bảo vệ môi trường đã và đang trở thành mối quan tâm mang tính toàn cầu. Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho học sinh tiểu học nhằm làm cho học sinh bước đầu biết và hiểu các thành phần môi trường (đất, nước, không khí, ánh sáng, động vật, thực vật và quan hệ giữa chúng); mối quan hệ của con người và các thành phần môi trường; ô nhiễm môi trường; biện pháp bảo vệ môi trường xung quanh (nhà ở, trường, lớp,…); bước đầu có khả năng tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường phù hợp với lứa tuổi (trồng cây, chăm sóc cây, làm cho môi trường xanh, sạch, đẹp); sống hoà hợp, gần gũi, thân thiện với thiên nhiên, sống tiết kiệm, ngăn nắp, vệ sinh, chia sẻ hợp tác; yêu quý thiên nhiên, gia đình, trường lớp, quê hương, đất nước; thân thiện với môi trường; quan tâm tới môi trường xung quanh.
Để thực hiện giáo dục bảo vệ môi trường trong trường Tiểu học có hiệu quả, nội dung giáo dục bảo vệ môi trường được lồng ghép, tích hợp trong các môn học với kiến thức phù hợp ở 3 mức độ:
- Mức độ toàn phần: Được áp dụng với những bài học có mục tiêu, nội dung phù hợp hoàn toàn với mục tiêu, nội dung giáo dục bảo vệ môi trường.
- Mức độ bộ phận: Được áp dụng với những bài học chỉ có một bộ phận có mục tiêu nội dung phù hợp với giáo dục bảo vệ môi trường.
- Mức độ liên hệ: Được áp dụng với những bài học có mục tiêu, nội dung có điều kiện liên hệ một cách lôgíc với nội dung giáo dục bảo vệ môi trường.
* Hình thức và phương pháp tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường:
a- Hình thức:
Căn cứ vào nội dung chương trình, sách giáo khoa và đặc thù giảng dạy từng môn học ở Tiểu học, có thể tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường theo các hình thức sau:
- Khai thác trực tiếp:
Đối với các bài học có nội dung trực tiếp về giáo dục bảo vệ môi trường, giúp học sinh hiểu, cảm nhận được đầy đủ và sâu sắc nội dung bài học chính là góp phần giáo dục trẻ một cách tự nhiên về ý thức bảo vệ môi trường. Những hiểu biết về môi trường được học sinh cảm nhận qua các bài học sẽ in sâu vào tâm trí các em. Từ đó, các em sẽ có những chuyển biến về tư tưởng, tình cảm và có những hành động tự giác bảo vệ môi trường. Đây là điều kịên tốt nhất để nội dung giáo dục bảo vệ môi trường phát huy tác dụng đối với học sinh thông qua đặc thù của từng môn học.
- Khai thác gián tiếp:
Đối với các bài học không trực tiếp nói về giáo dục bảo vệ môi trường nhưng nội dung có yếu tố gần gũi, có thể liên hệ trực tiếp với việc giáo dục bảo vệ môi trường nhằm nâng cao ý thức cho học sinh, khi soạn giáo án. Giáo viên cần có ý thức “tích hợp”, “lồng ghép” bằng cách gợi mở vấn đề liên quan đến bảo vệ môi trường. Hình thức này đòi hỏi giáo viên phải nắm vững kiến thức về giáo dục bảo vệ môi trường, có ý thức tìm tòi, suy nghĩ và sáng tạo để có cách liên hệ thích hợp. Giáo viên cũng cần xác định rõ: Đây là yêu cầu “Tích hợp” theo hướng liên tưởng và mở rộng, do vậy phải thật tự nhiên, hài hoà và có mức độ; tránh khuynh hướng liên hệ lan man, sa đà hoặc gượng ép, không phù hợp với đặc thù môn học.
- Dạy học trong lớp và ngoài thiên nhiên:
Đối với những bài có nội dung giáo dục bảo vệ môi trường trùng hợp phần lớn hay hoàn toàn với nội dung giáo dục chung thì thì tiến hành ngoài thiên nhiên sẽ mang lại kết quả cao hơn. Vì trong môi trường thực tế đó các em sẽ có được những cảm xúc thực sự về cảnh quan thiên nhiên, có được những liên tưởng chính xác, chân thực về những vấn đề môi trường và đó cũng chính là nơi các em thể hiện những hành vi thiết thực nhất. Tuy nhiên, do học sinh Tiểu học còn nhỏ, hơn nữa thời gian dành cho việc dạy học nội dung giáo dục bảo vệ môi trường không nhiều nên khó có thể tổ chức cho cả lớp cùng đến tất cả những nơi có vấn đề môi trường. Vì vậy, mà hình thức được sử dụng thường xuyên trong quá trình dạy học vẫn là hình thức tổ chức dạy học trong lớp. Để giờ học mang tính thực tiễn và đạt hiệu quả cao, giáo viên có thể giao cho các nhóm hoặc cá nhân nhiệm vụ khám phá các nội dung giáo dục bảo vệ môi trường ngoài giờ học thông qua sách, báo trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc quan sát trực tiếp tại nơi các em sinh sống.
Giáo dục bảo vệ môi trường không chỉ được thực hiện tích hợp trong các tiết học (trong lớp, ngoài lớp) mà còn được giáo dục thông qua các hoạt động khác như: thực hành giữ gìn trường, lớp sạch sẽ; trang trí lớp học đẹp; giáo dục quyền trẻ em và tiếp cận kỹ năng sống,…
b- Phương pháp:
- Phương pháp thảo luận:
Thảo luận là phương pháp giúp học sinh bày tỏ quan điểm, ý kiến, thái độ của mình và lắng nghe ý kiến của người khác. Khi được thảo luận về các vấn đề môi trường có liên quan đế nội dung bài học, học sinh sẽ có nhận thức và hành vi, thái độ đúng đắn về môi trường, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh thảo luận cả lớp hoặc thảo luận theo nhóm.
- Phương pháp quan sát:
Đây là phương pháp quan trọng nhất trong giáo dục bảo vệ môi trường cho học sinh Tiểu học. Qua quan sát tranh ảnh, thực tế môi trường xung quanh với sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh sẽ lĩnh hội được những tri thức cần thiết về môi trường và bảo vệ môi trường. Khi hướng dẫn học sinh quan sát, giáo viên lưu ý thực hiện theo quy trình: Xác định mục tiêu quan sát; lựa chọn đối tường quan sát; tổ chức và hướng dẫn học sinh quan sát; trình bày kết quả quan sát.
Ví dụ: Khi dạy bài “Vệ sinh môi trường” (lớp 3), giáo viên có thể tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường bằng việc giáo dục học sinh biết việc làm nào đúng, việc làm nào sai trong xử lý rác thải. Có thể tổ chức hoạt động này như sau:
Giáo viên cho học sinh quan sát các hình trong sách giáo khoa và nêu ý kiến của mình về các việc làm trong từng hình xem hành động nào đúng, hành động nào sai. Khi được quan sát dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh sẽ có nhận thức và hành vi đúng đắn: Không nên vứt rác bừa bãi ở những nơi công cộng; cách xử lý rác thải.
- Phương pháp trò chơi:
Trò chơi có ý nghĩa rất quan trọng đối với học sinh Tiểu học. Trò chơi gây hứng thú học tập cho học sinh, giúp các em lĩnh hội kiến thức về môn học trong đó có cả nội dung giáo dục bảo vệ môi trường một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, hiệu quả. Khi sử dụng phương pháp trò chơi, giáo viên lưu ý: Chuẩn bị trò chơi; giới thiệu tên trò chơi, hướng dẫn cách chơi, thời gian chơi và luật chơi; cho học sinh chơi; nhận xét kết quả trò chơi; rút ra bài học qua cách chơi. Tuỳ vào nội dung của từng bài học, giáo viên có thể chọn và tổ chức những trò chơi phù hợp để tích hợp giáo dục bảo vệ môi trường. Chẳng hạn, giáo viên có thể tổ chức trò chơi đóng vai giúp học sinh thể hiện nhận thức, thái độ của mình trong các tình huống cụ thể và thể hiện cách ứng xử phù hợp với các tình huống đó.
Ví dụ: “Khi dạy bài giữ gìn lớp học sạch đẹp” (lớp 1), giáo viên có thể tổ chức cho học sinh chơi trò chơi đóng vai với tình huống như sau:
“Trước giờ học, em nhìn thấy một nhóm bặnn quà , vứt rác giấy bừa bãi ra lớp, khi đó em đã làm gì? Hãy đóng vai thể hiện tình huống và cách xử lý của em”.
Khi học sinh đóng vai, các em thể hiện nhận thức, thái độ của mình qua vai đã đóng. Từ đó, giáo viên có thể điều chỉnh, bổ sung cho học sinh về nhận thức, hành vi giữ gìn vệ sinh trường, lớp học.
- Phương pháp tìm hiểu điều tra:
Trong giáo dục bảo vệ môi trường, đây là phương pháp tổ chức cho học sinh tham gia vào quá trình tìm hiểu các vấn đề môi trường ở địa phương. Qua tìm hiểu, học sinh nhận thức được thực trạng môi trường, giáo dục học sinh tình yêu quê hương đất nước, ý thức bảo vệ môi trường. Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên cần lưu ý: Thiết kế các câu hỏi, bài tập cho học sinh (cá nhân, nhóm) tiến hành điều tra, tìm hiểu các vấn đề về giáo dục môi trường (phương pháp này thường dùng cho học sinh lớp 3,4,5).
Ví dụ: Khi dạy bài “Vệ sinh môi trường” (lớp 3), giáo viên có thể cho học sinh tìm hiểu về các vấn đề:
+ Cách xử lý rác thải của địa phương nơi gia đình em sinh sống.
+ Các loại nhà tiêu thường xử dụng ở địa phương.
+ Ở địa phương, các gia đình, bệnh viện và nhà máy thường cho nước thải chảy đi đâu?
Khi dạy bài “Thân cây” (lớp 3), giáo viên có thể cho học sinh tìm hiểu:
+ Ở địa phương em, có những loại cây gì?
+ Ở địa phương em, người ta sử dụng thân cây để làm gì?
Tóm lại: Phương pháp giảng dạy của giáo viên về môi trường cần có hai nét chính:
Thứ nhất: Sự thành thạo phương pháp lấy người học làm trung tâm.
Thứ hai: Mỗi giáo viên đều là một nhà môi trường trong giảng dạy lĩnh vực chuyên môn của mình.
Giáo dục bảo vệ môi trường trong nhà trường nhằm đạt đến mục đích cuối cùng là trang bị cho học sinh một ý thức trách nhiệm sâu sắc đối với sự phát triển bền vững của trái đất. Một khả năng cảm thụ, đánh giá vẻ đẹp của nền tảng đạo lý môi trường, một nhân cách được khắc sâu bởi nền tảng đạo lý môi trường. Giáo dục bảo vệ môi trường trong nhà trường là một thực thể mang tính xuyên suốt trong các môn học, giáo dục môi trường mang lại cơ hội cho trẻ em khám phá môi trường và hiểu biết về các quyết định của con người liên quan đế môi trường. Giáo dục môi trường cũng tạo cơ hội để hình thành sử dụng các kỹ năng liên quan đến cuộc sống hôm nay và ngày mai của các em. Tất cả điều này cho chúng ta niềm hy vọng trẻ em có nhiều ý tưởng sáng tạo và tham gia tích cực vào quá trình phấn đấu cho một thế giới phát triển lành mạnh.
6) Kết luận
Tích hợp một cách khiên cưỡng là “trộn vô cơ” vào với nhau. Cứ thấy gần gần giống nhau thì ghép vào. Tích hợp không thể trộn như vậy được. Nó xuất phát từ một vấn đề đòi hỏi phải sử dụng năng lực kiến thức liên môn mới giải quyết được, chứ không phải người xây dựng chương trình hay giáo viên có thể chỉ định cái này phải kết hợp với cái kia được.
Chính vì vậy, trên thực tế có giáo viên vì đã tích hợp không có sự cân nhắc, lựa chọn trong một bài dạy nên dạy không đủ giờ, cái chính chưa nói được bao nhiêu mà phần tích hợp đã căng phồng, làm biến dạng tiết học. Lại có giáo viên lầm tưởng tích hợp là dựa vào cái này để tranh thủ nói về cái kia, nói càng nhiều càng tốt. Có bộ phận không nhỏ giáo viên thì băn khoăn liệu tích hợp có làm “hỏng” môn học hay không nên tốt nhất là… không tích cái gì vào cả.
Theo tiến sĩ Chu Cẩm Thơ, việc thực nghiệm dạy học tích hợp cần phải được thực hiện và phải được tiến hành rất kỹ lưỡng dựa trên cơ sở khoa học chứ không phải trên một cuộc thi, ai thích thì tham gia. Giáo viên cần có hướng dẫn nhưng phải là hướng dẫn mở để họ biết hướng đi đúng nhưng có những cách thức khác nhau để đi tới đích.